Thứ Tư, 29 tháng 4, 2009

THÔNG BẠCH

THÔNG BẠCH

Sau khi Đạo Cao Đài được định hình và phát triển mạnh mẽ ở miền Nam, các bậc Hướng Đạo muốn truyền bá ra Trung, Bắc, nhưng hoàn cảnh lúc bấy giờ thật là khó khăn. Năm 1929 Ngài Phối sư Thái Thơ Thanh ra Huế, Ngài Giáo sư Vương Quang Kỳ ra Bình Định. Năm 1932 Ngài Giáo sư Thái Gấm Thanh ra Quảng Nam... tất cả đều bị chính quyền Nam Triều và Bảo Hộ ngăn cấm cưỡng chế buộc phải trở về Nam. Đến khoảng năm 1934 - 1940, những người dân miền Trung từ các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam vào làm ăn, buôn bán, học hành ở miền Nam được Ơn Trên bố hóa gặp Đạo, gặp Thầy, họ đã nhập môn, mang kinh sách Thánh ngôn về truyền bá quê nhà. Tiếng kinh Cao Đài đã thu hút được quần chúng rất rộng rãi.

Vào đêm 23 rạng ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tuất (1934) tại Thánh Tịnh Đại Thanh Gò Vấp, Gia Định, Đàn cơ đầu tiên Thầy ban chỉ "Truyền Đạo Trung Kỳ".


"NGỌC chỉ ban ra dạ nghẹn ngùng,
HOÀNG cầu thế giới vẫn trời chung;
THƯỢNG cờ qui nhứt Minh Chơn Đạo,
ĐẾ mạng chừ ai gánh vác cùng?"

..."Ngày nay một phận sự quan hệ là truyền Đạo Trung Kỳ. Ban, Thầy sai con và Tứ Linh Đồng Tử khá kíp về Trung đặng hoát khai Chơn Đạo..."
Kể từ đó đoàn người sứ mạng lãnh lệnh đưa Đạo về Quảng Nam với tinh thần:
"Nghìn dặm xa xôi cánh nhạn trương,
Cùng nhau xốc gánh Đạo lên đường..."
Để rồi chấp nhận:

"Thuyền lướt sóng lúc dồi lúc dập,
Sóng bổ thuyền lượn thấp lượn cao"...
Tứ Linh Đồng Tử là bộ phận thông công do Thầy chọn làm phương tiện chuyển mối Đạo từ Thầy qua Thiên điển để cơ trình từng bước hiện bày, nhân duyên từng nơi kết tụ. Cùng lúc đó, các mối Đạo Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi tùy thuận cơ duyên, nhập dòng thành cơ Đạo miền Trung Nam, Ngãi, Bình, Phú.
Nền Tân pháp từ đó đã thâm nhập vào mọi tầng lớp mà không do bởi một Chức sắc của Chi Phái hay Hội Thánh nào ở miền Nam ra truyền. Do đó bổn đạo miền Trung không thống thuộc một Chi Phái nào mà gồm đủ cả Tiên Thiên, Cầu Kho, Tây Ninh, Minh Chơn Đạo, Liên Hòa Tổng Hội.v.v...
Các tỉnh miền Trung vốn là mảnh đất nghèo nàn, kham khổ nhưng có nhiều linh khí văn vật, lắm nhân sĩ ưu thời mẫn thế, nhiều bậc uyên thâm, đạo đức chân tu, sở đắc Đạo học Tam giáo đồng nguyên, với bản chất hiền hòa luôn thị hiện tâm Bồ Tát. Đó là nhân tố để Thầy và các Đấng Thiêng Liêng chuyển Đạo Trung Kỳ lập cơ qui nhứt ban truyền sứ mạng Trung Hưng. Thầy, Mẹ, các Đấng Thiêng Liêng, chư Thần, Thánh Việt Nam đã hội hiệp điển quang, chung dòng Pháp nhũ, khơi mạch dưỡng sinh, ươm mầm Thánh thiện, đưa ơn Tận độ đến mọi nhà.
Gặp lúc non sông khốn đốn, đất nước điêu linh, từ cảnh bị trị chuyển sang chiến tranh khốc liệt. Người dân không những chịu tình trạng phân ly tao loạn, cửa nát nhà tan, sớm còn tối mất mà thêm thảm cảnh rẽ chia nghi kỵ. Bên này hành, bên kia phạt để rồi có kẻ tù đày, có người thọ tử. Đối với một nền Đạo mới, phương tiện truyền giáo lại là thông công Cơ bút nên đã phải nếm trải nhiều thử thách gian lao, anh tù em tội, chùa bế thất niêm. Các Hướng đạo miền Trung đã dâng trọn thân tâm, chư Đạo đồ cũng đã hy sinh tất cả cho sự nghiệp truyền giáo độ đời.
Qua bao thử thách vàng đá phân vân, kể từ năm Nhâm Thìn (1952), do Đồng Tử Liên Hoa chấp cơ. Trong những đêm vắng lặng, từ nơi này, nơi kia, từ miền xuôi lên mạn ngược khắp cùng Nam, Ngãi, Bình, Phú nguồn Thiên điển đã kết nên lời vàng, tiếng ngọc, tạo chất sống tâm linh cho mọi mảnh hồn chí thành chí kỉnh. Ơn trên đã mở ra vận hội mới, muôn vàn lời Thánh ý Tiên đã chan rưới cho chúng sanh. Từ giai đoạn Chỉnh Cơ Lập Pháp sang Khai Cơ Giáo Pháp tất cả đều được lý giải thành các Chương Đạo Pháp.
- Phong thưởng cho người có công
- Hình thành bốn Cơ quan trị Đạo
- Ban 4 Pháp Bí tích
- Ban 4 tầng bậc công phu
- Xây dựng Bửu Tòa, Linh Tháp
- Hình thành Hội Thánh miền Trung với các tiêu ngữ:
* Thuần chân vô ngã
* Thiên nhân hiệp nhất
* Vạn giáo nhất lý
* Tâm vật bình hành

- Chỉnh tu hình thức Thiên ân
- Ban Thiên phục và gởi gắm nhân sanh cho Đầu Họ Đạo.
- . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Suốt mấy mươi năm dòng Thánh Truyền đã chuyển tải bao huyền ngôn diệu nghĩa vào cõi thế.
Rất tiếc vì ngoại cảnh miền Trung lúc bấy giờ quá đỗi khắc khe nên những "bản điển"_ phần nhiều thất lạc. Tuy nhiên nội dung Thánh ý đã nằm lòng trong chư tín hữu.
Khi nguồn Ân Phước trao truyền tạm đủ mọi phương môn, Thầy dạy Hội Thánh phải soạn thành "Bửu Chương Pháp Đạo" để làm cơ chỉ cho "CHÁNH PHÁP TRUNG HƯNG". Hội Thánh đã tuân mạng, nhưng mãi thời gian thực hiện vì nhiều điều kiện nhân tâm chi phối, hoàn cảnh éo le nên những chương Đạo Pháp quí báu vẫn chưa thành hình, đã thế lại có thể bị biến tiêu luôn theo cơn xoáy trốt. Nhưng quả là việc của Thầy nào ai thấu được. Khi thời cơ biến chuyển vận hội xoay chiều, trong tinh thần đổi mới tư duy, nguồn văn hóa tâm linh đã có cơ tưới tẩm lại. Thánh ngôn, Thánh giáo Cao Đài được con cái Thầy lục lọi, sưu tầm sao chép. Lời Thánh Truyền Trung Hưng cũng đã vọng vang trong các buổi học Đạo đó đây. Hội Thánh nhận thấy rằng di sản mấy mươi năm của cơ Đạo miền Trung chưa gom được sẽ là điều tổn thất lớn cho hậu nhân, nên đã tìm phương kết tập.
Theo lời dạy của Thầy việc thực hiện Bửu Chương Pháp Đạo nên theo hình thức "Thủ Lăng Nghiêm" hoặc như là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Trong phạm vi có thể thực hiện được, Hội Thánh đã chọn cách "hiệp tuyển" tuần tự theo thời gian có đặt đề mục để khai thác, trích lục học hỏi.
Về phần nội dung, mặc dù đã cố gắng đối chiếu kỹ lưỡng nhưng sẽ không làm sao khỏi sai sót. Những đoạn chấm chấm... có thể là phần Thánh huấn nội vụ hoặc vì truy tìm chưa đầy đủ. Hội Thánh rất mong sự tiếp trợ bổ sung của chư thiện hữu để công trình kết tập Thánh Truyền Trung Hưng được bồi đắp thêm luôn.
Ngoài ra Hội Thánh nhận thấy trước đây có một số vị nóng lòng, đã thực hiện sưu tập. Điều nầy rất quí, tuy nhiên nay đối với Thánh Truyền Trung Hưng thì không cần thiết sưu tập riêng nữa, để tránh trình trạng tam sao thất bổn sai lạc Thánh ý.
Trong hoàn cảnh hiện tại, Hội Thánh chưa đủ điều kiện in ấn phát hành rộng rãi được, mà chỉ thực hiện thành từng tập lưu trữ tại Hội Thánh và Họ Đạo để quí Chức sắc có thể dùng tham khảo trích lục, giảng luận hướng dẫn tu học. Đây là một tiềm năng văn hóa dân tộc và Đạo học vô cùng quí báu mong rằng nó sẽ có cơ hội khai thác đúng mức làm món ăn tinh thần đích thực cho tâm linh, cho mọi người được sống trong Thánh Giáo, Thánh Ngôn.

HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI

Đọc thêm!

PHONG THÁNH CHO NỮ PHÁI

THI

Tiên phàm bận bịu thảm thương thay!
Biển khổ sao em mãi đắm hoài?
Kiếp sống trên đời như giấc mộng,
Lần chân theo Chị đến Bồng lai.

THỂ LIÊN TIÊN NỮ, Chị mừng các em.
Các em ôi! Từ xưa Tôn giáo lập thành, một là do nơi tay Giáo Chủ, hai là nhờ những tay Hướng Đạo có lòng nhiệt liệt vì đời, chẳng phải như nay. Các em thử coi: Các Đấng Thiêng Liêng: Thần, Tiên, Thánh, Phật đến chỗ trần trọng trược này rất khó vì một phần Tiên Thiên, quên hết chín phần Hậu Thiên!... Khuyên các em chớ dễ duôi mà đắc tội lắm các em à!
Vậy các em thành tâm khử trược, đâu đó chỉnh tề, nghỉ 10 phút, sắp Đàn lại, đổi ngòi cơ, đặng tiếp giá MẪU HOÀNG.
Chị chào các em, Chị lui.

TÁI CẦU:

DIÊU TRÌ KIM MẪU, MẸ mừng các con.
THI

Bứt rứt đòi phen dạ chẳng đành,
Giáng trần chi sá trược cùng thanh;
Con ôi! Miễn độ qua bờ giác,
MẸ há nài chi sự nhọc nhằn!

MẸ giáng giờ này dạy các con hay rằng: Cơ Đạo hoằng khai đến Trung Kỳ, ngoài mấy thu dư rồi, song đến đây theo lời tiên tri nhất định, sau khi sắp công cuộc Trung Hưng Thánh Tòa rồi, thì trong ban Hướng Đạo sẽ tùng Nội luật mà thi hành. Vậy ngày nay đây Trung Hưng Thánh Tòa chưa thành lập, song Trung Thành Thánh Thất cũng là cơ thể ngoại giao cho Trung Hưng Thánh Tòa. Vậy MẸ đến đây giờ nầy:

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Giờ MẸ ban cơ phong Thánh:

• Lê Chơn Giác : Nữ Giáo sư
• Trương Thị Ngọc Dung : Nữ Giáo hữu
• Trần Thị Tuyết : Nữ Lễ sanh

Còn các con sau rồi sẽ ban cho. Trong ba con, nhất là con Giáo hữu phải lo về mặt phổ thông cho lắm! Nên chọn cho có nhân tài giúp sức nghe con! Vì đương trong buổi sơ khai, việc phổ thông cần lắm đó vậy!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

THI


Bớ trẻ con ôi! Chóng tới con!
Rán tu giỏi giỏi, quả công bòn;
Rồi đây MẸ sẽ dành ban đặt,
Đặt để chia phần mỗi mỗi con.

BÀI

Con Nữ phái rán tu giỏi giỏi,
Tu làm sao thoát khỏi Diêm phù;
Tu vầy mới gọi rằng tu,
Tu sao công quả ngàn thu hưởng đời.

Này con ôi! Nhớ lời MẸ dạy,
Dạy các con, con phải thi hành;
Quyết lòng độ tận quần sanh,
Sanh linh đắm đuối chẳng đành ngồi coi.

Phận Nữ nhi thiệt thòi lắm trẻ,
Trễ con sao chẳng lẹ bước kìa;
Rồi đây công quả MẸ chia,
Chia cho mỗi đứa danh bia mỗi phần.

Phận Nữ phái đành thân bồ liễu,
Nỗi thấp hèn ươn yếu lắm con;
Văn minh sóng bủa đức mòn,
Làm cho phụ nữ chẳng còn tinh hoa.

Làm mất nết con nhà giáo dục,
Làm tồi phong bại tục suy đồi;
Mãi mai cứ vậy mà thôi,
Văn minh vật chất thêm tồi văn minh!

Đời như thế ai nhìn vậy đặng,
Đời như vầy ai hẳn ngồi yên;
Nổi sôi giải phóng bình quyền,
Làm cho phận gái lợt duyên mặn mà.

Thói đã xấu còn ra tuyên bố,
Đời đã hư con hổ chăng con?
Làm cho xấu nước xấu non,
Nhục danh, nhục thể đời con ra gì!

Văn minh vỏ không tri thời cuộc,
Lấy bề ngoài quên chuốt bề trong;
Văn minh hiểu thấu tận lòng,
Văn minh đó thiệt mới hòng văn minh.

MẸ dạy trẻ ngàn kinh muôn điển,
Khuyên con điều: “Ái thiện hóa nhân”;
Con ôi! sanh đứng trong trần,
Phải tùy thời vụ mà cần nghiệm suy.

Mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Đưa con qua bể khổ trầm luân;
Con ôi! Chi xiết nỗi mừng!
Nhà Nam phận gái mở bừng mắt xem.

Xem đoàn chị lũ em phải tính,
Tính sao đây chớ nín ngồi coi;
Dỡ hay rồi cũng tôi đòi,
Làm thân nô lệ mãi hoài sao con?
Con có biết chi còn hơn nữa,
Nửa kiếp sinh mà chửa ra gì!
Con ôi đã trí phải tri,
Trí tri song cũng phải tùy thời gian.

Đêm thanh vắng trung Đàn MẸ giáng,
Dạy các con đặng hãn cơ Trời;
Này con cuộc thế lưng vơi,
Nay nầy, mai nọ ngắm đời ra chi!.

Động lòng MẸ DIÊU TRÌ nhức nhói,
Vì thương con lặn lội đêm hôm;
Thi văn bút mực luận đàm,
Rồi ra cũng cậy tay phàm mà thôi!

MẸ buồn lắm con ôi có rõ,
Gặp mặt con muốn tỏ đôi lời;
Khó vì trẻ khéo lảng lơi,
Nỗi vì phận sự nên lời khó than!

Dù thương cũng căm gan nín lặng,
Chờ cho con biết đặng cơ Trời;
Rồi sau MẸ sẽ cạn lời,
Cho con thấu rõ cơ Trời liệu toan.

Thôi gà đã gáy vang thế ấy,
MẸ giã con chống gậy lui về;
Khuyên con lời MẸ đã phê,
Gắng ghi vào dạ mựa hề chi con!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
MẸ ban ơn các con.
MẸ thăng./.
Đọc thêm!

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2009

ĐẠO PHÁP BÍ GIẢI

THI
Huynh-Hà sóng bủa ngất trời Đông,
Mi chớp tường-quang chiếu ánh hồng.
Đong nguyện nhứt tâm lo bước đạo,
Tư thừa sắc-tứ bố huyền-công.
Tiểu-Thánh báo tin có Chí-Tôn ngự bút. Tiểu-Thánh
xuất ngoại hộ đàn. Tiểu-Thánh xin lui...
(Tiếp điển:)

Download :chưa cập nhật Đọc thêm!

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2009

NGÔ VĂN CHIÊU Người Môn Đệ Đầu Tiên



Năm 1920 (Canh Thân) Đức Cao Đài khởi sự hóa độ
các tông đồ, lập nên hàng môn đệ tiền phong, khai sơn phá
thạch, mở ra một tôn giáo mới tại Việt Nam. Thời kỳ hóa
độ các tông đồ diễn tiến trong khoảng sáu năm (1920-
1926), gồm hai giai đoạn:
- Năm 1920 (Canh Thân), Đức Cao Đài trước tiên chọn
tiền bối Ngô Văn Chiêu, người sẽ xây dựng nền tảng vô vi
hay nội giáo tâm truyền (esotericism).
- Năm 1925 (Ất Sửu), Đức Cao Đài hóa độ nhóm Cao-
Phạm, về sau gọi là nhóm phổ độ, những vị sẽ xây dựng
nền tảng phổ độ hay ngoại giáo công truyền (exotericism).
Đọc thêm!

Bồi dưỡng Đức Tin


1. TÔN CHỈ ĐẠI ĐẠO
Chủ Nhật, 06-12-1926 (02-11 Bính Dần)
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài giáo đạo Nam
Phương.
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu, chư tín nữ.
Chư nhu nghe.
Ta vì lòng đại từ đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng
nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôn chỉ để vớt những
kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số
mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi
nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy

Đọc thêm!

THẦN MINH

Bữa cơm chiều đã chuẩn bị xong, dĩa rau luộc rất ngon nhưng chén mắm ớt lại thiếu một lát chanh. Chị Hoa tặc lưỡi tiếc rẻ. Chợt trong đầu chị hiện ra một cây chanh với những trái căng mọng nước. Đó là cây chanh mọc cạnh giếng trong vườn nhà anh X đã chết, vườn lẫn nhà bị bỏ hoang. Người trong xóm đồn ở đó có ma. Chiều tối ít ai dám đi ngang qua đó. Tuy sợ, nhưng nhìn ra ngoài trời thấy chưa tối hẳn nên chị Hoa tự trấn an: “Kệ, ráng một chút cho bữa cơm ngon hơn.”

Khi chị bước vội đến cây chanh, đưa tay ra thì… “Trời Phật ơi! Cứu con với…ới…ới…” Tiếng kêu cứu vang lên từ lòng giếng khiến chị giật mình, tim đập thình thịch, hai chân rủn xuống. Chị muốn bỏ chạy nhưng sợ quá, đứng lên không nổi…

“Cứu con với…ới…ới…” Tiếng kêu đau đớn như tiếng khóc lại dội lên từ lòng giếng. Thu hết can đảm, chị cúi nhìn xuống. Một cái đầu trẻ trồi lên, động đậy dưới đáy giếng đen ngòm. Vậy là người chứ không phải ma.

Cháu gái được vớt lên, kháu khỉnh, chừng 5-6 tuổi. Sau khi cháu được lau khô, xoa dầu làm ấm, thì công an phường Trang Đài (thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) nghe báo tin đã vào tìm hiểu sự việc. Đang nằm nghỉ mệt, thấy mấy công an, cháu ngồi bật dậy chỉ tay vào ngực, tự giới thiệu rành mạch: “Ở nhà con tên là Nô-en. Ở trường con tên Nguyễn Hoàng Băng Châu. Con được 6 tuổi. Con học lớp 1 trường Nguyễn Du. Nhà con ở gần nhà hàng Quyết Thắng.”

Có người hỏi: “Sao con kêu Trời Phật cứu mà không kêu ba má hay người khác?” Cháu trả lời: “Tại con thấy trong ti-vi người ta cũng kêu như vậy. Với lại lúc đó không có ai hết!”

Cháu mồ côi mẹ, ba mới cặp bồ với một cô. Hôm đó ba cháu đi vắng, cô ta lái xe đến nhà bảo là chở cháu đi gặp ba rồi đem bỏ xuống giếng.

Bàn thêm: Trong cái KHÔNG luôn ẩn cái CÓ. Lực thần của Trời, Phật, Chúa đang tầm thinh cứu khổ, cứu nạn những người vô tội, khiến cho kịp thời có nhơn trợ duyên cho các Đấng thị hiện đức háo sanh ố sát, và trừng phạt kẻ gian ác đã đánh mất lương tâm mà Trời đã ban cho mình.



(Trích: Bồi Dưỡng Đức Tin của Ngọc Giáo hữu Bùi Văn Tâm.)
Đọc thêm!